CAO ĐÔNG KHÁNH,

NGỌN LỬA CUỒNG CỦA NGÔN NGỮ

Nguyễn Vy-Khanh

 

Thơ Cao Đông Khánh xuất hiện khi làn sóng thuyền nhân lên cao độ những năm 1980-1981, khi lương tâm nhân loại phải đương đầu với thảm kịch thuyền nhân Việt Nam, khi những tuyên truyền khuynh tả và chủ nghĩa bạo tàn đă để rơi mặt nạ! Thủ phạm đă rơ nhưng nạn nhân cũng đă quá nhiều, hàng trăm ngàn người trong số gần hai triệu thuyền nhân rời bỏ quê hương đă không bao giờ đến bến. Họ, những thảm kịch mà công luận quốc tế cuối cùng đă biết đến, đă nh́n thấy, họ đă bỏ ḿnh nơi biển cả, trong rừng sâu, v́ bạo lực, v́ bất nhẫn của người đối với người,... Cao Đông Khánh là thuyền nhân, ông đă sống cái bi trạng đó và ông đă dùng thơ để lên tiếng, như Trường Ca Vượt Biển:

"như vậy đó, biển hàng ngày tăng trưởng

biển mọc trong đầu biển khắp tay chân

biển xót xa em từ cái răng cái tóc

con mỹ nhân ngư này tên gọi thuyền nhân"

(Tạm Dung, Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn, tr. 91)

"... em nói, chồng em chết tù cải tạo

những đứa con ngọc ngà chết ở biển đông

c̣n đứa trẻ khôi ngô này, sinh ở trại tị nạn

cha nó đang làm hải tặc Thái lan..."

(LĐNGH, tr. 164).

Đối với Cao Đông Khánh, biển đă trở nên cuộc đời, đă thành ám ảnh, nhà tù:

"... Để anh nhắc ngày anh ra biển

chặt một chân để lại làm tin

hăy xẻ khô cất làm lương thực

em ráng sống giùm anh nghe em

nghe đó em người làm nhân chứng

t́nh yêu này như hỏa diệm sơn

Để anh kể cho em tưởng tượng

một đêm, gió khô hết hơi thở

người chết dưới biển lên đảo viếng thăm ..."

(Đường Ngô Thị Tâm, LĐNGH tr. 100)

Bài Trường Ca Vượt Biển, ra mắt trên tạp chí Quê Hương tháng 1-1980, đă như một tiếng kêu thương nhức nhối. Nhưng rồi nhà thơ đă dành cho t́nh yêu một chỗ lớn, xuất bản Lịch Sử T́nh Yêu năm 1981 (1) và 15 năm sau những thống khoái cuộc đời, đă trở lại với tuyển tập Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn (2). T́nh-yêu được đặt trong hành tŕnh cuộc đời một đời người Việt từng sống những thăng trầm của sinh mệnh đất nước và dân-tộc: đi lính, bị thương, du học Hoa-kỳ, hồi hương và ở lại với Việt-Nam bị cộng sản miền Bắc xâm chiếm, rồi làm thuyền nhân, sống hết ḿnh đời lưu vong và sống trọn vẹn với văn-chương rồi vĩnh viễn ra đi v́ bệnh tật.

Nh́n chung, thơ Cao Đông Khánh là một bản trường ca về của những thống khổ của thấu hiểu cuộc đời và chân lư giới hạn, cái tri của một người sống nhiều mà lịch lăm cũng lắm! Những trường ca của Cao Đông Khánh (như Anh Hùng Mạt Vận hay Di Tản America mỗi bài dài trên 200 câu) làm chúng tôi liên tưởng đến bài hành Khúc Đoạn Trường của Cao Vị Khanh (3), nhưng cái đớn đau của họ Cao sau hiền ḥa nhẫn nhục hơn. Có thể v́ méo mó nghề nghiệp gơ đầu trẻ chăng? Cao Đông Khánh "hét" lớn, liên lũy, với những lời lẽ rất thường nghe ở đầu đường, xóm chợ, những bộ chữ của chị bán chè hoặc anh hùng dao búa, những tay hảo hớn, xếp x̣ng hay dân nhậu nhẹt, lê la,... có lúc trơn tru, có lúc lại chát chúa và cả ồn ào! Dĩ nhiên cũng khác Kiệt Tấn, cũng bi hận nhưng thâm trầm hơn với trường thi Việt Nam Thương Khúc (4).

Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn gồm 15 chương thơ sáng tác trong hai thập niên, từ 1976 đến 1996, theo biến chuyển của các biến cố liên hệ đến Việt Nam. Như chuyện dài một người Việt ở những năm cuối một thế kỷ. Tập thơ nhiều thể loại, từ lục bát đến thơ văn xuôi, cách tân ở dụng thanh âm và ngôn từ sử-dụng của một Nam kỳ Lục-tỉnh b́nh dân nhưng có khi phù thủy mạnh mẽ như nước sông Cửu Long trước khi đổ ra biển: thơ Cao Đông Khánh viết để được đọc lên và được nghe, thơ tâm sự với người!

"sài g̣n chợ lớn như mưa chớp

nát cả trùng dương một khắc thôi

chim én bay ngang về xóm chiếu

nước ṛng ngọt át giọng hàng rong

hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược

trái cây quốc cấm giấu trong ḷng

hỏi thăm cho biết đường ra biển

nước lớn khi nào tới cửa sông?

sài g̣n khánh hội gió trai lơ

khi ấy c̣n tơ gái núi về

đào kép cải lương say tứ chiếng

ngă tư quốc tế đứng xàng xê

gánh nước nặng hơn vác thánh giá

má đỏ h́nh như rượu mới nồng..."

(Sàig̣n Rồng Bay Phượng Múa, LĐNGH, tr.56).

Những con bạn hàng xuôi ngược, con bạn thời sinh tử, chiếc ghe bầu khẳm héo hon,... nghe như gần gũi mà như xa, như đă mất! Qua những địa danh là những chuyến du hành từ quá khứ, từ bên kia vùng ư thức, là những cuộc trốn chạy trong cơn lên sốt để khám phá ra rằng trần thế hăy c̣n sống động, lúc nguy nga lúc tàn tạ!

"... Nơi em ở đó lâm li t́nh ái, mà, em nỡ bỏ đi, không ai có thể hiểu nổi. Cái trái ô môi đậm đà hơn đường mật, cái thơm cái khóm ngọt ửng màu phèn, cái xe thổ mộ rềnh rang lục lạc, cái con nhỏ hồi xưa tóc cài hoa thiên lư, mà, lư em về dọn dẹp hồi xưa, dọn anh ra khỏi quốc gia, dọn Việt Nam ra hải phận quốc tế.

"Anh mang khối t́nh c̣n e lệ đi chu du.

"Trên núi mây ngũ sắc, ngoài biển gió mưa ḥa thuận anh gầy lại miếng đất thân sinh, lập trang trại gia bảo. Anh chọn con ngựa trong mười hai con giáp, anh tra khớp bạc, anh thắng kiệu vàng, anh phi nước kiệu đưa nàng đi thăm cổ tích, có chiếc lá rơi biến thành chim vành khuyên đậu trên vai người hóa đau" (Bầy Ngựa Văn Hóa).

Những bất ngờ t́nh ư, h́nh ảnh. Quá khứ thơ mộng trộn lẫn hiện tại lưu vong:

".. sài g̣n gia định em vô trước

qua ngă cầu bông mới tủi thân

chiếc xe đ̣ cũ như chùa miễu

chở hết vàng son tới ủ ê..."

(LĐNGH, tr. 57)

Cao Đông Khánh làm thơ xuôi và thơ tự do, cái tự do phóng túng mà sinh động, xuôi chảy của những cái trục trặc cuộc đời - trục trặc tiếp nối nhau thành như xuôi chảy tự nhiên! Nhà thơ thổi vào những câu nói và chữ dùng của dân gian vùng Sài-G̣n và lục tỉnh, làm chúng sống động, có hồn ra, và có cá tính! Cao Đông Khánh có tài hà hơi, đem tinh khí đến chỗ chết chóc, ù ĺ, dung tục.

Ông có những chữ dùng mới của riêng ông: ngôi nhà cảnh thạnh, hoa cổ tích, miếng ăn t́nh tứ,... Cao Đông Khánh tân kỳ hóa cả thơ cũ, lời xưa, chữ dùng quen,.. thành của riêng Cao Đông Khánh! Tiếng vọng dân ca, ngày đă xa hay hôm nay anh nh́n ngắm người t́nh! Nói đến người đẹp:

"Nàng có chất rượu trong chiếc kẹo bọc chocolate, có đôi mắt tṛn như biển xanh ở chính giữa trời mây trắng, có đôi chân khép nơi chỗ ngồi, hở nơi chàng nằm, có ngày thong dong như sóng nước, có đêm nhẹ như cánh diều bay, có kiểu đi chân không, có dáng mang guốc cao gót, có cách mặc áo dài, có điệu mặc quần jean,...

Lê thị Vân Nga như tiếng hát ngoài vô tận, nàng ở không gian ngoài, ngoài bất cứ mọi dèm pha; nàng ngây thơ đối với mưu lược, nàng trinh tiết trong đời t́nh; nàng thông minh trong định ư, (...). Nàng có thân thể của cỏ non mọc trên ngọn gió có cánh tay dịu dàng trổng tỉa văn minh.

(...) Tháng Bảy dài hơn hết, tháng Bảy nhớ thương hơn hết, tháng Bảy trời mưa ấp ủ hương hoàng lan. Tháng Bảy của nàng ẳm con về Đà Lạt, tháng Bảy chỉ có người đi mới hiểu v́ sao. Tháng Bảy v́ sao có một người biết hơn ai hết, những tháng Bảy trời cao trời thấy ra sao?" (Lời Thống Trách Của Kẻ Ở, tr. 61).

Người nữ, mà chân dung, diện mạo đă và sẽ đè nặng trên từng bước đi chu du của người lữ thứ, ở những thành phố dù xa lạ, cả khi mặt trời lên cao và biển mở rộng!

Thơ xuôi, thơ với lời thống trách, kể lể, thơ tính nằm ở âm hưởng của lời, ở âm vang của ư. Những lời tuôn, đi măi, xa măi,,,! Lời ẩn mật như để nói riêng, tâm sự riêng với người xa khuất. Nhà thơ sống chết với người đẹp, một người nữ nào đó ông đă phải thốt:

"... Anh cung kính biết bao nhiệt t́nh

thờ phụng thần tượng: Em

Người đàn bà lăng mạn cuối cùng của thế kỷ"

(Trăng Trong Vịnh Frisco)

Biển, nước,... vẫn là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong thơ Cao Đông Khánh, cả khi nhớ người t́nh:

"Đêm. Gió, Cây. Trời. Hồn nhiên

t́nh cờ ngọn lá quạt giọt nước nhẹ khắp

nơi nào cũng nhớ em như nhớ nhà

Nhớ em như nhớ nhà ..."

(Từ Nơi Yêu Dấu, LĐNGH, tr. 5)

T́nh yêu đi với t́nh quê hương và thân phận lưu đày. Lời thú "Anh nhớ em như nhớ nhà em ơi". C̣n bi ai nào hơn! Cả khi đi vào hết bài thơ với những nhung nhơ,ù những chi tiết t́nh ái tầm thường đă làm nên hạnh phúc hay đau khổ tiếc nuối "Cố nhiên điều anh nói chẳng ai tin, kể cả, khi em lang chạ với người đàn ông đó cùng một kiểu như với anh...".

Cuộc đời với những trận cười bên chai rượu, với những tiếng súng trận địa, với những con người bày vẽ nhân đạo,...

"mới chín tới chia hơi cần sa tâm huyết

mùa hè 70 máu chảy đỏ ḥa b́nh

em ở Berkerley hay ở Massachussetts

thuở xuân th́ cổ vơ kẻ xâm lăng .." (tr. 130).

Cao Đông Khánh làm thơ như say sóng vô tận với rượu nồng và thuốc lá Bastos xanh

"như cá nước ngọt theo cuồng lưu ra biển

t́m về bất kể nơi nào hợp thức tâm cơ..."

(LĐNGH, tr. 85).

"... ta chia sớt với em một gian pḥng khách

ta đeo tượng phật cươi em đeo chúa đóng đinh

em pha tách cà phê ta đốt điếu thuốc cuối

trong cái gạt tàn đầy tro bụi riêng "

(LĐNGH, tr. 298).

Nhà thơ sống tận cùng cuộc đời, dan díu với từng nét riêng, từng nét thấp. Sống b́nh dân để viết nên những lời quần chúng cận nhân t́nh đọng chất thơ. Bóng cuộc đời xô bồ, ồn ào dàn trăi trên những ư thơ, thứ thơ từ cơi sống đi ra và sẽ trở về nơi ô trọc. Đời, với Cao Đông Khánh, là một tṛ chơi lớn, nơi đó có rủi may định mệnh, có con người, có t́nh yêu và cái chết!

Cao Đông Khánh như muốn tạo một ngôn ngữ thơ mới, đặc biệt của riêng Cao Đông Khánh, ngôn ngữ đặt thơ ở chân tường những ảo tưởng và son phấn, là đi vào ḷng cuộc phiêu du lớn, là để cho tiếng nói phát biểu bí ẩn riêng của chúng. Với hai tập thơ đă xuất bản, người thưởng thức thơ phải đối đầu với một thi ca muốn cuộc đời chiến thắng bởi tàn khốc của cái chết. Thơ Cao Đông Khánh không phải là văn chương mà trước hết đă là Ngôn Ngữ và Tiếng Nói. Thật vậy, người đọc thường phải đương đầu với một ngôn ngữ quá đà, thô tục, một ngôn ngữ tuyệt vọng nảy sinh tiếng cười khinh mạn, châm biếm; những thành ngữ bẻ cong bẻ ngược như tiếng lóng trao đổi ở đầu đường "vô nghĩa". Dùng tiếng nói để cụ thể tiếng ḷng của người thơ, để đến với người thưởng thức thơ. Thơ đưa người đến gần nhau, đẩy người tâm sự và cả âu yếm với người. Hoa gấm đă là quá khứ, vậy sử-dụng những tầm thường mà sinh động, để vang lên tiếng vọng từ tâm thức nhà thơ. Thơ Cao Đông Khánh phải đọc lớn tiếng và nếu được, trước người khác, h́nh như mới hay, v́ với Cao Đông Khánh, ư của ngôn ngữ chính là ở ư của lời nói. "... Bài thơ bỗng rưng rưng / lời mặc khải viết xuống thành chữ / chữ hiện h́nh xinh đẹp " (LĐNGH, tr. 289). Mỗi bài thơ là một chuyến đi chơi xa trong tiếng nói. Với chiếc xe tùy thân, chuyến đi xa mỗi người làm lấy ngay trong chính thân xác không bất tử của chính ḿnh! Thành thử hay ở ngoài, như "tiếng hát ngoài vô tận, nàng ở không gian ngoài, ngoài bất cứ mọi dèm pha", như lửa đốt ngoài giới hạn!

"Những chuyến xe vẽ hoa chở chuyên ân ái

trên g̣ má em xâm một cánh hoa hồng

chiếc Volkswagen đời 60 có h́nh nữ phận

chở trăng vào soi cửa giữa giai nhân"

(LĐNGH, tr. 130).

"Ra mắt đời sống, anh bước vào hầm rượu mịt mù khói thuốc, nhớ đêm mùa thu lá rụng trong sân trường đại học như bước chân của đám âm binh bước vào thư viện sắp xếp lại kệ sách, nhồi thuốc súng vào mẫu tự rồi chạy táo bạo lộn xộn trong kư túc xá, sử dụng đủ loại nhạc khí khiến cho trái tim em đập theo những nhịp dồn dập, rớt ra khỏi lồng ngực, c̣n lại, cặp vú mỹ miều bơ vơ; anh say gục xuống" (LĐNGH, tr. 172).

"... Chiều trổ mây âm dương

Khuya ngạc môi son những mặt trời đàn bà

Em phù dung mở cửa. Để đẻ

Cho sướng chỗ em buồn..."

(Trăng Trong Vịnh Frisco).

Cao Đông Khánh có ẩn ngữ của cuộc đời mới, sau những khổ ải vượt biển, vượt biên, nay hiện diện ở khắp Americas. Đời như một tṛ chơi vừa khốn kiếp vừa bi hài. "... Tháng 6 trên băi biển nắng mưa tôi làm người ngoại quốc, tôi nói Anh ngữ với người bản xứ rất vui. Người ta hăm hiếp đàn bà của tôi, thử cho biết mùi trái cây lạ... " (LĐNGH tr. 118).

Những lời những chữ mà nhiều người đọc không chấp nhận là thi ca, lên tiếng phản đối ồn ào một thời, thời họ Cao xuất hiện trên trường thơ hải ngoại. Họ nhân danh một truyền thớng, một "văn hóa" đă quen!

"...Trên nóc cao ốc trùng trùng đàn ông. Chót vót

điệp điệp đàn bà. Cái Lớn. Cái Bé

Những bái vật muôn năm nằm trong gốc gác con người

Cái Răng. Cái Tóc. Cái Lồn. Cái Hồn Vía c̣n tươi

Kẻ di tản đă ra khỏi đường chân biển

Và bao nhiêu đường chân trời. Không ai nhớ rơ

Đi hết ánh sáng. Đốt lửa ngoài giới hạn..."

(Cánh Đồng Trầm Thủy. LĐNGH, tr. 311)

Ở những chỗ Cao Đông Khánh dâm hóa con chữ, ngôn ngữ trở thành không gian nơi đó nhà thơ vật lộn đê mê với xác phàm, như cái khoái lạc chiếm hữu thân thể người nữ. Ở đây người nữ đồng nghĩa với thơ, cả hai chia xẻ ảo tưởng và ám ảnh của nhục dục, cái giác cảm đối đầu với quá quắt là cái đem lại sự sống hoặc chết. Thành thử nhà thơ như không có lựa chọn nào khác là chụp lấy cái Chân lư từ thân xác, là dựng nên một vở kịch nơi đó ngôn ngữ đến gần tiếng ḥ hét. Thơ với người nữ làm một, từ hơi thở, mùi vị đến cả thịt da, cử động. Khoái lạc nhục dục của con chữ trong những hành cử yêu, ghét, làm t́nh,... và thơ bị tàn sát khiến phải kêu lên rằng đang chết trong khoái lạc. Nhà thơ thu nhỏ thi ca lại trong sự thật trần truồng khi đối đầu chúng với cái chết! Phải chăng đó là lư do những phê phán Cao Đông Khánh "tàn diệt" ngôn ngữ thi ca?

Văn chương nói rốt cùng là ở trong cách thể hiện, cái cách xuất phát từ cái tay hay cái đầu hoặc con tim? Cái tay là cơ quan hành pháp của ngôn ngữ, cơ quan khích động và đ̣i hỏi hành động! Với Cao Đông Khánh, thơ thành công khi khiến người đọc thơ cảm nhận có bàn tay đó, có cú đấm, làm chết, làm động lên khiến nhạc tính xuất hiện và con tim bị động! Thơ ông động đến bàn tay, và đ̣i hỏi hành cử, dù tâm sự lúc đó nhăo mềm. Bàn tay để đụng chạm và nắm bắt. Đụng chạm dưới nhiều h́nh thức từ chạm đằu ngón đến vuốt ve mơn trớn, mong hoán đổi nhịp con tim. Nắm bắt v́ chạm đến tột cùng của ư thức, của cảm giác. Thơ với Cao Đông Khánh là chất men say con người, một thứ "hữu thể" dễ bốc hơi từ hiện sinh và thân xác, là hơi thở của "ngôi nhà nhẹ nhẫng", của thể chất cơi đất, tức là chính mỗi con người. Qua lời, qua tiếng nói, người thơ hiện hữu. Ngôn ngữ lại có bộ nhớ dù chúng luôn chạy trốn, luôn chảy, bay mất. Lời thơ chen lấn trong tôi và bản chân diện mục tôi, giữa tôi và thế giới, giữa tôi và người khác. Thi cách cũng là một biểu hiệu nhân sinh quan, với Cao Đông Khánh th́ đă quá rơ!

Cao Đông Khánh đă mở đầu một trong những bài thơ sau cùng:

"Hắn đă đến. Đă ở. Đă đi

Trống thêm một chỗ trống..."

(Trăng Trong Vịnh Frisco)

 

Chú-thích

1.         Cao Đông Khánh. Lịch Sử T́nh Yêu. Garden Grove, CA: Nhân Chứng, 1981. 136 tr.

2.         Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn: thơ tuyển chọn từ 1976-1996 của 1 người là Cao Đông Khánh. Houston, TX: Tác giả xb, 1996. 314 tr. Phần lớn của tập Lịch Sử T́nh Yêu được in lại trong tuyển tập mới này.

3.         Cao Vị Khanh. Lệ Từ Nét Ngang. South Boundbrook NJ: Thư Ấn-quán, 2001. Khúc Đoạn Trường (tr. 11-68), viết theo thể song thất lục bát, 155 đoạn 4 câu.

4.         Kiệt Tấn. Việt Nam Thương Khúc. Paris: An Tiêm, 1999. 144 tr. Gồm 3100 câu.

Nguyễn Vy Khanh

21-11-2001